TỔNG QUAN
Bệnh lý tim mạch là nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất ở những bệnh nhân bệnh thận mạn, kể cả có hay không điều trị thận nhân tạo. Nguy cơ biến cố tim mạch cao ở nhóm bệnh nhân này có sự tham gia của quá trình vôi hóa mạch máu [1] [2].
Vôi hóa (Hay Calci hóa – Calcification) là sự tích tụ của muối Calci trong các mô của cơ thể; thường là ở trong mô xương; nhưng cũng có thể lắng đọng bất thường trong các mô mềm khác ngoài xương [3], làm các mô trở nên cứng hơn.
Vôi hóa mạch máu là hiện tượng chất khoáng bám trên thành các mạch máu; các mảng chất khoáng này đôi khi kết dính với lipid hoặc mảng bám đã được tích tụ trước đó trên thành mạch máu. Hầu hết những người trên 60 tuổi đều có sự tích tụ chất khoáng và Calci trong các động mạch chính, và quá trình này tiến triển tăng dần theo thời gian [4]. Tỷ lệ vôi hóa mạch máu phát hiện bằng chụp cắt lớp vi tính là trên 80% ở bệnh nhân có lọc máu [5]. Tỷ lệ này ở bệnh nhân bệnh thận mạn không có thận nhân tạo và có eGFR < 60ml/ph/1,73m2 là từ 47 đến 83% [6]. Sự vôi hóa này làm giảm độ đàn hồi của các mạch máu, quan trọng nhất là động mạch chủ và hệ thống động mạch, làm giảm huyết động tuần hoàn, dẫn đến các tình trạng bệnh lý và tỷ lệ tử vong đáng kể [7] [8]. Một số tổn thương và bệnh lý tim mạch thường gặp do vôi hóa mạch máu như: Tăng huyết áp, hẹp động mạch chủ, phì đại tim, thiếu máu cục bộ cơ tim và chi dưới, suy tim sung huyết … [2] [4].

Tuy hiện không có liệu pháp cụ thể nào để ngăn chặn sự tiến triển hoặc tạo điều kiện thoái triển quá trình vôi hóa mạch máu, ngoài việc thận trọng duy trì cân bằng Calci – Phosphat cho bệnh nhân. Nhìn chung, chưa có khuyến cáo cần thiết phải sàng lọc những bệnh nhân bệnh thận mạn về vôi hóa mạch máu, vì không có dữ liệu nào cho thấy việc phát hiện sớm điều này sẽ mang lợi ích cho bệnh nhân; hơn nữa, không có bằng chứng cho thấy các can thiệp làm chậm sự tiến triển của vôi hóa mạch máu giúp cải thiện nguy cơ đối với các kết cục lâm sàng. Tuy nhiên, việc xác định và đánh giá mức độ tổn thương vôi hóa mạch máu có giá trị tiên đoán nhất định [9]. Vôi hóa mạch máu và xơ cứng động mạch được xác định là các yếu tố dự báo độc lập về tử vong do mọi nguyên nhân và tử vong do tim mạch ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối [10]. Hơn 40% bệnh nhân lọc máu sẽ tử vong vì các nguyên nhân liên quan đến vôi hóa mạch máu [11].
YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA VÔI HÓA MẠCH MÁU Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN TÍNH
Dựa trên những bằng chứng nghiên cứu vững chắc, ngay từ những năm 2002, Hội Thận Hoa Kỳ đã đưa ra khuyến cáo mọi bệnh nhân bệnh thận mạn đều được coi là có nguy cơ cao bệnh tim mạch (Bất luận ở mức độ nguy cơ nào khi xếp loại theo các yếu tố nguy cơ kinh điển), bệnh thận mạn là nguy cơ cao nhất mắc bệnh lý tim mạch [12]. Cơ chế bệnh sinh của bệnh lý mạch máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn được nhận thấy là khác với các bệnh lý do xơ vữa động mạch. Các yếu tố nguy cơ khác đối với bệnh lý mạch máu ở bệnh thận mạn bao gồm: Viêm, suy dinh dưỡng, quá trình Oxy hóa và bất thường chuyển hóa chất khoáng [13]. Hiện nay, kết quả của nhiều nghiên cứu trên thế giới đã cung cấp bằng chứng về mối liên quan của một số yếu tố nguy cơ với quá trình vôi hóa mạch máu nói chung, và trên đối tượng bệnh nhân bệnh thận mạn nói riêng:

Tuổi và thời gian lọc máu
Tuổi và thời gian lọc máu dài có liên quan đến việc tăng tần suất vôi hóa mạch máu [14]. Trong một báo cáo tổng quan có tính hệ thống và toàn diện, gồm 30 nghiên cứu trong khoảng thời gian hơn 20 năm, tuổi và thời gian lọc máu là các yếu tố chính liên quan đến vôi hóa mạch máu trong những bệnh nhân bệnh thận mạn [14]. Meema HE và cộng sự (1976) đã tiến hành chụp 364 phim Xquang xương trên 152 bệnh nhân bệnh thận mạn, vôi hóa mạch máu được quan sát thấy với tỷ lệ 30% đối với những bệnh nhân từ 15-30 tuổi, và 50% đối với những bệnh nhân 40-50 tuổi [15]. Trong một nghiên cứu khác, vôi hóa mạch máu được quan sát thấy với tỷ lệ 39% đối với những bệnh nhân bắt đầu lọc máu, và 92% với những bệnh nhân có thời gian lọc máu chu kỳ trung bình 16 năm [16]. Mức độ nặng của vôi hóa cũng tăng lên cùng với tuổi và thời gian lọc máu [16].
Tăng Phosphat và tăng Calci máu
Tăng Phosphat máu kéo dài, đặc biệt trong trường hợp có kèm theo tăng Calci máu (Kéo dài hoặc từng đợt), thúc đẩy việc khởi đầu và tiến triển của vôi hóa mạch máu [17]. Trong một nghiên cứu trên 205 bệnh nhân lọc máu chu kỳ, vôi hóa mạch vành (CAC) có liên quan trực tiếp với nồng độ Calci và Phosphat của từng cá nhân [18]. Nồng độ Calci máu tăng thêm 1mg/dL có tác động lên quá trình vôi hóa tương đương với tăng thời gian lọc máu trong hơn 5 năm. Nồng độ Phosphat máu tăng thêm 1mg/dL có tác động lên quá trình vôi hóa tương đương với tăng thời gian lọc máu trong hơn 2,5 năm. Tăng tạo thành các phức hợp Calci-Phosphat cũng liên quan với tăng nguy cơ vôi hóa mạch máu. Trong một nghiên cứu trên 39 bệnh nhân trẻ lọc máu chu kỳ (Tuổi trung bình là 19), nhóm bệnh nhân có vôi hóa động mạch vành được nhận thấy có nồng độ phức hợp Calci-Phosphat huyết thanh cao hơn so với nhóm không có vôi hóa động mạch vành (65 so với 56 mg2/dL2), mặc dù nồng độ huyết thanh của riêng Calci và riêng Phosphat là không có sự khác biệt ý nghĩa giữa 2 nhóm [19]. Nồng độ huyết thanh, đặc biệt của Calci, không nhất thiết phản ánh nồng độ tại chỗ từng vùng, cái mà có thể cao hơn nhiều, đặc biệt ở những vị trí có quá trình viêm diễn ra (Như thành động mạch) [20]. Tại vùng viêm, vôi hóa có thể xảy ra ngay cả khi không có sự xuất hiện của tăng Calci máu, tăng Phosphat máu, hoặc cả tăng phức hợp Calci-Phosphat. Ngoài ra, những bệnh nhân bệnh thận mạn có thể có cân bằng Calci dương tính, thậm chí Calci huyết thanh là bình thường và không có sự gia tăng phức hợp Calci-Phosphat.

Việc sử dụng Calci đường uống
Tăng lượng Calci nạp vào cơ thể qua đường uống cũng có liên quan với nguy cơ vôi hóa mạch máu cao hơn. Trong một nghiên cứu, lượng Calci ăn vào hàng ngày là cao hơn gần gấp đôi ở những cá nhân có vôi hóa mạch máu (6.456 so với 3.325 mg/ngày) [19]. Điều này có ý nghĩa quan trọng liên quan đến việc sử dụng các thuốc chứa Calci, làm tăng đáng kể lượng Calci nạp vào. Lượng Calci trong chế độ ăn uống bình thường là dưới 1.000mg/ngày. Việc kê đơn thuốc với hàm lượng 500mg Calci nguyên tố (1.250mg Calci Carbonat) làm tăng đáng kể lượng Calci nạp vào. Trong nghiên cứu được trích dẫn ở trên [19], lượng Calci ăn vào tăng gấp đôi chủ yếu do sự khác nhau trong việc sử dụng thuốc chứa Calci. Một số nghiên cứu khác cũng đã đánh giá cụ thể việc tăng nguy cơ do các thuốc chứa Calci ở bệnh nhân bệnh thận mạn có lọc máu chu kỳ và không có lọc máu.
– Trên bệnh nhân có lọc máu: Trong những bệnh nhân lọc máu chu kỳ, sử dụng các thuốc có chứa Calci có liên quan rõ rệt với sự gia tăng tiến triển của vôi hóa mạch máu so với các thuốc không chứa Calci (Ví dụ: Sevelamer 800mg) [21]. Trong nghiên cứu Treat-to-Goal (n=200) và RIND (Renagel in New Dialysis) (n=134) ở bệnh nhân lọc máu chu kỳ được chỉ định ngẫu nhiên Sevelamer và thuốc có chứa Calci, kết quả trên nhóm bệnh nhân được chỉ định thuốc có chứa Calci có nhiều vôi hóa động mạch vành và/hoặc động mạch chủ hơn ở tháng thứ 12 đến tháng thứ 24 [22] [23].
Tuy nhiên, liều của thuốc có chứa Calci ở các nghiên cứu trên là cao (Xấp xỉ 4g/ngày). Ngoài ra, Sevelamer có thể làm giảm sự vôi hóa bằng các cơ chế khác không liên quan đến lượng Calci nạp vào (Sevelamer đã được chứng minh có thể làm giảm lipid máu, CRP, Acid Uric và giảm quá trình Oxy hóa [24] [25]). Ủng hộ giả thuyết tác dụng hạ lipid của Sevelamer làm giảm nguy cơ vôi hóa, thử nghiệm CARE-2 (The Calcium Acetate Renagel Evaluation – 2), với sự kiểm soát mức lipid giữa các nhóm, đã cho thấy rằng không có sự khác biệt trong tiến triển của vôi hóa động mạch vành giữa Sevelamer và Calcium Acetat [26]. Thử nghiệm CARE-2 là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng không phân cấp trên 203 bệnh nhân lọc máu chu kỳ có nồng độ huyết thanh của Phosphat cao hơn 5,5mg/dL, mức LDL-c cao hơn 80mg/dL và vôi hóa mạch máu được đánh giá bằng kỹ thuật chụp cắt lớp điện tử EBCT, được chỉ định ngẫu nhiên với Calcium Acetate hoặc Sevelamer trong 12 tháng. Tất cả bệnh nhân được dùng Atorvastatin để đạt mức LDL-c huyết thanh dưới 70mg/dL. Sau 12 tháng, thang điểm vôi hóa động mạch vành (CACs) tăng trung bình 35% với Calcium Acetate và 39% với Sevelamer. Nguyên tố Lathan (La) cũng được chứng minh là làm giảm quá trình vôi hóa mạch máu so với các thuốc có chứa Calci trong 2 nghiên cứu [27] [28]. Lathan không được biết có tác dụng hạ lipid như Sevelamer. Điều này gợi ý rằng những lợi ích tương đối của thuốc chứa Calci đối với quá trình vôi hóa mạch máu là độc lập với tác dụng hạ lipid.
– Trên bệnh nhân không có lọc máu: Các thuốc có chứa Calci làm trầm trọng thêm tiến triển của vôi hóa mạch máu ở những bệnh nhân CKD không có lọc máu nhưng đã có sẵn vôi hóa, mặc dù chúng không nhất thiết làm tăng tỷ lệ vôi hóa [29]. Trong nghiên cứu INDEPENDENT, những bệnh nhân bệnh thận mạn có eGFR từ 30-60ml/ph/1,73m2 được chỉ định ngẫu nhiên, liên tục với Sevelamer và Calcium Carbonat [30]. Trong những bệnh nhân đã có vôi hóa mạch máu từ đầu, sự thoái triển vôi hóa động mạch vành được nhận thấy xảy ra nhiều hơn nhóm được chỉ định Sevelamer so với nhóm được chỉ định Calcium Carbonat (Lần lượt là 24 so với 2). Đến 24 tháng, vôi hóa mới ở mạch máu phát triển ít hơn ở bệnh nhân điều trị bằng Sevelamer so với Calcium Carbonat (Lần lượt là 5 so với 45). Một nghiên cứu khác đã công bố cùng năm cho thấy, trong 148 bệnh nhân có eGFR từ 20-45ml/ph/1,73m2 được chỉ định với Calcium Acetat, Lathan Carbonat, Sevelamer và giả dược, điều trị tích cực với bất kỳ thuốc nào cũng làm tăng hơn quá trình vôi hóa mạch vành và động mạch chủ bụng so với giả dược [31]. Tuy nhiên, nghiên cứu này là không đủ để so sánh sự khác biệt giữa từng thuốc riêng lẻ trong các nhóm điều trị tích cực. Sự tăng tiến triển của vôi hóa mạch máu ở đây có thể là do tác dụng của các thuốc có chứa Calci [32]. Ngoài ra, so sánh với nghiên cứu INDEPENDENT, những người tham gia trong nghiên cứu này có nồng độ huyết thanh ban đầu của Phosphat thấp hơn (4,9 so với 4,2mg/dL). Điều này gợi ý rằng những bệnh nhân trong nghiên cứu này có nhiều khả năng duy trì cân bằng nội môi Phosphat bình thường hơn, do đó, có nguy cơ vôi hóa mạch máu thấp hơn. Kết quả là, những bệnh nhân trong nghiên cứu INDEPENDENT có nhiều khả năng được hưởng lợi ích hơn từ sự can thiệp của các nhà nghiên cứu.
Vai trò của cân bằng Calci dương
Nguy cơ dư thừa lượng Calci nạp vào có thể do tạo ra cân bằng Calci dương, mà không phải luôn luôn được phản ánh qua nồng độ Calci huyết thanh. Điều này đã được chứng minh trong một nghiên cứu chéo ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược, trong đó, đã đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng Calcium Carbonat đường uống đối với cân bằng Calci và Phosphat ở 8 bệnh nhân bệnh thận mạn có eGFR trung bình từ 15-59ml/ph/1,73m2 [33]. Đối tượng nghiên cứu được nhận một chế độ ăn có kiểm soát với phần bổ sung Calcium Carbonat (1.500mg Calci/ngày) hoặc giả dược trong suốt 2 chu kỳ 3 tuần. Máu và nước tiểu lúc đói được thu thập lúc bắt đầu và tại thời điểm mỗi cuối tuần. Tất cả phân và nước tiểu được thu thập trong tuần thứ 2 và 3 trong mỗi chu kỳ. Một đồng vị Calci đường uống và tĩnh mạch (45CaCl2) được sử dụng để xác định động học của Calci. Những bệnh nhân có cân bằng Calci và Phosphat trung tính khi được điều trị với giả dược. Bổ sung Calcium Carbonat tạo ra cân bằng Calci dương và không có ảnh hưởng đến cân bằng Phosphat. Ngoài ra, so sánh với giả dược, bổ sung Calcium Carbonat đã làm giảm một lượng nhỏ Phosphat bài tiết qua nước tiểu. Động học của Calci được chứng minh có tỷ lệ với cân bằng xương. Tuy nhiên, lượng Calci lắng đọng trong xương ít hơn tổng lượng Calci trong cân bằng dương, cho thấy có sự lắng đọng ở mô mềm ở mức độ nhất định. Sinh hóa máu và nước tiểu lúc đói về cân bằng nội môi của Calci và Phosphat không bị ảnh hưởng của Calcium Carbonat, cho thấy rằng nếu chỉ dựa vào nồng độ trong máu để xác định sự dư thừa hay tích lũy chất khoáng là vô ích. Việc giải thích của những dữ liệu này có thể bị giới hạn bởi tính chất ngắn hạn của nghiên cứu. Có khả năng rằng chỉ sau một tuần sử dụng Calci , những bệnh nhân trong nghiên cứu không đạt được trạng thái ổn định. Nếu vậy, cân bằng Calci dương trong thời gian ngắn đó có thể là một đáp ứng tích hợp theo nhiều năm để khắc phục tình trạng suy giảm Calci trong xương, do đó, có thể giảm dần theo thời gian [34]. Trong những nghiên cứu trong khoảng thời gian dài hơn trên bệnh nhân bệnh thận mạn trước lọc máu, sự bài tiết Phosphat trong 24h về cơ bản giảm đáng kể khi sử dụng các thuốc có chứa Calci [31].
Cường tuyến cận giáp thứ phát và bệnh xương bất hoạt
Cả cường tuyến cận giáp thứ phát (Loạn dưỡng xương do thận có chu chuyển xương cao) và bệnh xương bất hoạt (Loạn dưỡng xương do thận có chu chuyển xương thấp) đều có liên quan đến vôi hóa mạch máu [35].
– Cường tuyến cận giáp: Trong một nghiên cứu trên 38 bệnh nhân thận nhân tạo trong 10 đến 25 năm theo dõi dọc, vôi hóa mạch máu có liên quan đến cường cận giáp, thể hiện qua sự giảm tiến triển sau phẫu thuật cắt tuyến cận giáp[16]. Tương tự, trong một nghiên cứu khác, nồng độ hormone tuyến cận giáp (PTH) trong huyết thanh cao hơn ở nhóm 52 bệnh nhân có vôi hóa mạch máu, so với nhóm 338 bệnh nhân thận nhân tạo không có vôi hóa mạch máu (Tương ứng 189 so với 145pg/ml) [36].

– Bệnh xương bất hoạt: Bệnh xương bất hoạt gây ra những tác động làm tăng quá trình vôi hóa mạch máu trên bệnh nhân. Trong một nghiên cứu ở bệnh nhân thận nhân tạo, mối liên hệ giữa chu chuyển xương thấp và vôi hóa mạch máu đã được quan sát thấy [37]. Tương tự, trong một nghiên cứu khác trên bệnh nhân bệnh thận mạn không có thận nhân tạo, việc tăng vôi hóa động mạch vành có liên quan độc lập với sự hình thành xương thấp hơn [38]. Một nghiên cứu khác tiến hành trên những bệnh nhân lọc máu chu kỳ, có sự tương quan đáng kể giữa liều lượng các thuốc có chứa Calci và hoạt động của xương; gợi ý rằng lượng Calci nạp vào có tác động đáng kể đến tăng vôi hóa động mạch chủ ở các bệnh nhân có bệnh xương bất hoạt khi so sánh với nhóm bệnh nhân có bệnh xương hoạt động [39].
Vitamin D và thuốc Calcimimetic
Các hoạt chất có hoạt tính Vitamin D và thuốc Calcimimetic được sử dụng để điều trị cường tuyến cận giáp thứ phát ở bệnh nhân thận nhân tạo.
– Vitamin D: Thiếu Vitamin D không được điều trị có liên quan đến tăng vôi hóa mạch máu. Trong một phân tích trong những đối tượng có và không có bệnh thận mạn, nồng độ Vitamin D trong huyết thanh thấp hơn có liên quan đến tăng nguy cơ phát triển vôi hóa động mạch vành (Sau khi hiệu chỉnh theo tuổi, giới tính, chủng tộc, dân tộc, cơ địa, mùa, chỉ số khối cơ thể, chức năng thận và tiền sử hút thuốc) [40]. Một cơ chế được đề xuất là thiếu hụt Vitamin D làm giảm tổng hợp các peptid liên quan đến PTH (PTHrP – PTH related peptid) hoặc các protein hình thành xương, giúp tăng cường sự biến đổi cơ trơn thành mạch máu thành tế bào hủy xương [41]. Trong số những bệnh nhân bị thiếu Vitamin D, bổ sung Vitamin D có thể có lợi ích bảo vệ chống lại quá trình vôi hóa mạch máu, bằng cách giảm tổn thương nội mô thông qua bất hoạt hệ Renin – Angiotesin – Aldosteron, giảm đề kháng Insulin, giảm Cholesterol, ức chế tế bào bọt và sự giải phóng Cholesterol trong đại thực bào, điều hòa quá trình tái tạo mạch máu [42].

Tuy nhiên, sử dụng quá nhiều Vitamin D cũng có liên quan đến tăng vôi hóa mạch máu [16], có thể là do liên quan đến tăng Calci máu và phức hợp Calci-Phosphat tăng cao. Cả hai điều này đều là những yếu tố nguy cơ gây vôi hóa mạch máu. Sử dụng quá nhiều Vitamnin D cũng có thể gây ra bệnh xương bất hoạt, cũng là yếu tố nguy cơ của vôi hóa mạch máu.
– Các thuốc Calcimimetic: Các thuốc Calcimimetic có thể làm giảm quá trình vôi hóa. Điều này được đề xuất từ một nghiên cứu hồi cứu ngẫu nhiên (Nghiên cứu ADVANCE) trên 360 bệnh nhân thận nhân tạo có PTH > 300mg/ml hoặc PTH từ 150-300pg/ml, và phức hợp Calci-Phospho > 50mg2/dL2. Thuốc Cinacalcet (30 đến 180mg/ngày) và các dẫn xuất có hoạt tính Vitamin D liều thấp (Tương đương ≤ 2µg Paricalcitol với mỗi lần phân tách) làm giảm vôi hóa mạch máu và cả vôi hóa van tim [43].
Các yếu tố nguy cơ khác
– Calci trong dịch lọc: Nồng độ Calci trong dịch lọc cao cũng liên quan đến tăng vôi hóa mạch máu. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên trên 425 bệnh nhân thận nhân tạo, nhận thấy rằng sử dụng dịch lọc có nồng độ Calci là 1,25mmol/l (2,5mEq/l) đã làm chậm tiến triển của vôi hóa động mạch vành sau 24 tháng, so với dịch lọc có nồng độ Calci là 1,75mmol/l (3,5mEq/l) [44].
– Giảm Magie máu: Giảm Magie máu có liên quan đến tăng vôi hóa mạch máu. Vervloet M và cộng sự (2017) nghiên cứu trên 52 bệnh nhân thận nhân tạo có vôi hóa mạch máu và 338 bệnh nhân không có vôi hóa mạch máu (188 nam và 150 nữ), nồng độ Magie máu có liên quan độc lập với vôi hóa mạch máu (Sau khi hiệu chỉnh theo tuổi, giới tính, thời gian lọc máu, nồng độ Calci máu, Phosphat máu và PTH) (OR: 0,28; 95% CI 0,09-0,92 với mỗi 1mg/dL Magie máu tăng thêm) [45]. Tương tự, trong một nghiên cứu trên 80 bệnh nhân thẩm phân phúc mạc, Magie máu cao hơn có liên quan đến việc giảm vôi hóa động mạch chủ (Sau khi hiệu chỉnh theo tuổi, Phosphat máu, PTH, LDL-c, tiền sử hút thuốc và đái tháo đường) [46]. Việc sử dụng Magie cũng giúp ngăn ngừa quá trình vôi hóa mạch máu trong các mô hình thực nghiệm [47].
– Đái tháo đường: Trong các bệnh nhân không có bệnh thận mạn, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng đái tháo đường là một yếu tố nguy cơ gây vôi hóa mạch máu. Điều này cũng đúng ở những bệnh nhân bệnh thận mạn. Trong nghiên cứu Dallas Heart Study, những bệnh nhân có eGFR < 60ml/ph/1,73m2 và không lọc máu, đái tháo đường làm tăng nguy cơ vôi hóa mạch máu từ 3,5 đến 55,7% [48]. Tuy nhiên, nhóm chứng trong nghiên cứu này có nguy cơ vôi hóa mạch máu thấp đáng ngạc nhiên, làm hạn chế khả năng tin cậy khi quan sát các đối tượng trong nghiên cứu.

– Rối loạn lipid máu: Rối loạn lipid máu làm tăng nguy cơ vôi hóa mạch máu ở những bệnh nhân không có bệnh thận mạn. Các rối loạn lipid máu (Chủ yếu là HDL-c thấp, Triglicerid cao, LDL-c và Cholesterol toàn phần cao) có giá trị dự báo cho quá trình vôi hóa mạch máu; điều này đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu và được tổng hợp trong một đánh giá hệ thống [14]. Như đã nói ở trên, tác động có lợi của Sevelamer đối với sự vôi hóa mạch máu có thể liên quan phần nào đến tác động hạ lipid máu của thuốc. Cơ chế là thông qua cảm ứng quá trình viêm và tổn thương tế bào nội mô và/hoặc tế bào cơ trơn thành mạch máu do quá trình Oxy hóa lipid. Ngoài ra, HDL-c điều hòa quá trình biệt hóa tạo xương của các tế bào mạch máu; mức HDL-c thấp hơn có liên quan đến việc tăng tác dụng phụ của LDL-c bị Oxy hóa [49].
– Thuốc kháng Vitamin K đường uống: Một số nghiên cứu về bệnh nhân không có bệnh thận mạn đã cho thấy mối liên quan giữa Wafarin (Và/hoặc các thuốc kháng Vitamin K khác) với tăng vôi hóa mạch máu. Han KH và cộng sự (2016) nghiên cứu trên 430 đối tượng, nhận thấy tần suất vôi hóa động mạch ngoại vi cao hơn 44% ở những bệnh nhân sử dụng Wafarin so với những bệnh nhân không sử dụng [50]. Một nghiên cứu khác cũng gợi ý rằng, trong số những bệnh nhân như vậy, việc sử dụng Vitamin K có thể làm chậm sự tiến triển của quá trình vôi hóa [51]. Đây là một thử nghiệm mở tiến hành kéo dài 12 tháng trên 72 bệnh nhân được điều trị chống đông máu bằng thuốc kháng Vitamin K. Bệnh nhân được chỉ định dùng Vitamin K có tiến triển vôi hóa mạch máu chậm hơn so với nhóm dùng giả dược tại thời điểm 12 tháng (10 so với 22%). Tuy nhiên, những bệnh nhân bệnh thận mạn không được đưa vào thử nghiệm này. Cơ chế của thuốc Wafarin và các thuốc kháng Vitamin K làm tăng quá trình vôi hóa là do ức chế các protein bảo vệ. Wafarin ngăn chặn sự hoạt hóa của các protein phụ thuộc Vitamin K (Như protein MGP và GRP có vai trò ức chế quá trình vôi hóa mạch máu) [52]. Nồng độ cao hơn trong huyết thanh của protein MGP chưa được hoạt hóa (Chưa được Carboxyl hóa) là một dấu hiệu nhạy cảm của sự thiếu hụt Vitamin K, có liên quan đến tăng quá trình vôi hóa [53]. Nồng độ của protein này cũng được sử dụng để dự đoán nguy cơ mắc hội chứng Calci hóa mạch máu và hoại tử da [54].

Đọc thêm: Cơ chế bệnh sinh của vôi hóa mạch máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính
.